THỜI SỰ TRONG TUẦN – TVTS 11.10.2022: Tổng Trọng vào Nam, Vạn Thịnh Phát sụp, Trương Mỹ Lan bị bắt, trợ lý Nguyễn Phương Hồng chết; THỜI SỰ TRONG TUẦN – TVTS 18.10.2022: Ai giết trợ lý Nguyễn Phương Hồng? Thêm 1 người tự tử! Trát đòi Trump ra Ủy ban điều tra 6/1
Mới đây, chiều 26/8/2022, Shark Bình và ca sĩ, diễn viên nổi tiếng Quỳnh Nga với biệt danh "cá sấu chúa", đã liên tục được cộng đồng mạng nhắc tới và tìm kiếm. Xu hướng này nhanh chóng đưa chủ đề 'Shark Bình' và 'Quỳnh Nga' lên top tìm kiếm Google, do công cụ Google Trends
Nguyên văn câu nhắc đến Thi Sách là “Giá vu Chu Diên nhân Thi Sách thê thậm hùng dũng”. Nhà nghiên cứu Lê Minh Khải đã chỉ ra điểm bất cập trong ngữ pháp của câu này. Theo ông, câu chép của Phạm Diệp khá rối. Khi chuyển cụm “Thi Sách thê” sang “thậm hùng dũng” cũng
Không ai hiểu được tâm trạng của bị cáo thế nào sau ánh mắt vô cảm ấy. Được hỏi về lý do giết người, Thuận khai, đầu năm 2000, cha Thuận về Bình Định làm thủ tục chuyển hồ sơ hưu trí cho hai vợ chồng vào TP HCM vì ông bà đã già yếu, thường xuyên bệnh tật.
Chương 532: Ai giết ai? truyện Triệu Hoán Chi Vô Địch Thế Tử Điện Hạ tại webtruyenonline.net - đọc truyện online, truyện chữ, truyện hay nhiều thể loại
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd. Nhắc lại, Nguyễn Bình theo bức thư viết tay vắn tắt có vài hàng của Hồ chí Minh đã rời bỏ Bắc Việt để vào chỉ huy cuộc kháng chiến Miền Nam vào đầu năm 1946. Lúc đó có miền Đông là lan tràn khói lửa. Nguyễn Bình kiểm điểm tình thế, và hiểu ngay rằng thực lực của các bộ đội Cộng sản hay thân Cộng tại Miền Đông nói riêng, chẳng có là bao Huỳnh văn Nghệ, Kiều Đức Thắng, Đào Sơn Tây, Tô Ký, Tám Chùa chỉ có danh có tướng mà không có quân nhất là không có vũ khí. Trái lại, các bộ đội quốc gia, hay nói nôm na theo danh từ dân chúng thời đó là “bộ đội đánh Tây” như Bình Xuyên, Việt Nam Quốc Dân Đảng do Phạm Hữu Đức nguyên Tư Lệnh phó Đệ Tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Thiệp, chỉ huy. Đại Việt Quốc Dân Đảng thể hiện bằng bộ đội An Điền sau là Trung Đoàn 25 Bình Xuyên do Bùi Hữu Phiệt chỉ huy, lại quá mạnh mẽ về quân số cũng như về vũ khí. Sở dĩ các bộ đội này hùng mạnh, đầy đủ vũ khí, phần lớn do binh đội Nhựt trao cho, do chiếm đoạt được của Nhựt, của Chà Chóp và sau này của Pháp. Vũ khí của Bình Xuyên đã được Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường, khi chỉ huy ngành Công an Nam Kỳ, thời Nhật vừa đảo chánh Pháp, trao cho. Phạm Hữu Đức, tức Tư Đức là nhân viên cao cấp trong Hiến binh Nhựt, nên khi Nhựt đầu hàng Đồng Minh, trao cho Đệ Tam sư đoàn nhiều súng đạn là sự dễ hiểu. Trường hợp của bộ đội An Điền lại vô cùng đặc biệt. Khi Nhựt đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945, Trung-ương Đại Việt Quốc Dân Đảng phái một số cán bộ chánh trị và quân sự đi cùng với Huỳnh văn Tiếng, Đặng Ngọc Tốt vào Nam chỉ với mục đích là bành trướng đảng, sau đó đấu tranh chánh trị. Trong “phái đoàn quân chánh Đại Việt” vào Nam thời bấy giờ có – Thiếu tướng Phạm Thiết Hùng, người Việt, đã từng là anh hùng mặt trận Trường Sa Trung Hoa Dân Quốc kháng Nhật anh vợ của tướng Phan Trọng Chinh ngày nay, – Nguyễn văn Hướng bí danh Mười Lễ em bà bác sĩ Nguyễn thị Sương, vợ của ông Hồ Vĩnh Ký nguyên Tổng thư ký Tổng thống phủ và hiện là Chủ nhiệm nhựt báo “Đời Sống Việt Nam”, – Triệu Phong tức Trần Kim Phượng hiện là Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao sau nhiều năm làm Đại sứ, – Triệu Tín tức luật sư Nguyễn tấn Thành, Thực sự, lúc đó Đại Việt Quốc Dân Đảng chỉ nghĩ nhiều tới vấn đề chính trị, nhưng vấn đề chính trị tại Việt Nam lại diễn tiến ngoài sự dự liệu của Đại Việt Việt Minh lên nắm chánh quyền chứ không phải đảng phái quốc gia hay khâm sai Nguyễn văn Sâm khi Nhựt đầu hàng Đồng Minh. Phiên họp tối mật tại biệt thự của bà Hồ Vĩnh Ký, với sự tham dự của – đại diện Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Cao Đài Tây Ninh, – Lê Kim Tỵ Cao Đài Bến Tre, – Phạm Hữu Đức Việt Nam Quốc Dân Đảng, – Dương văn Giáo, – Hồ văn Ngà đại diện Khâm Sai Nguyễn văn Sâm để lật đổ Trần văn Giàu, có thể coi là Chủ tịch Ủy ban Hành Chánh Nam Bộ vì Phạm văn Bạch – Chủ tịch được chỉ định vắng mặt kiêm Ủy viên quân sự, không đi đến kết quả mong muốn vì sự lưỡng lự của nhân sĩ Cách mạng Dương văn Giáo. Ngày 28 tháng 9 năm I945, Pháp công khai tấn công “quân đội” Miền Nam. Đại Việt Quốc Dân Đảng buộc lòng phải chuyển mình qua thế quân sự. Và bộ đội An Điền, tên tại một Tổng ở quận Thủ Đức, nơi các cán bộ Đại Việt “chiêu quân”, được thành lập dưới quyền chỉ huy của một người dân địa phương tên Trần văn Quới, tức Bảy Quới, sinh viên luật khoa cũng vừa từ Bắc trở về cố hương. Chiến trận miền Đông trong thời kỳ khói lửa ngất trời thì Bảy Quới được lệnh ra Bắc. Quyền chỉ huy bộ đội An Điền trao lại cho Bùi Hữu Phiệt, một nhà cách mạng quốc gia vừa từ Côn đảo trở về, đồng chí với Đinh Khắc Thiệt, Đinh Khắc Quyết thủ lãnh của Thanh Niên Ái Quốc Đoàn với sự tham đự của cụ Hồ Nhựt Tân, Tú Quyền và bà Song Thu. Bùi Hữu Phiệt chỉ gia nhập Đại Việt khi là Tư Lệnh bộ đội An Điền. Sự lớn mạnh của bộ đội An Điền là cả một giai thoại. Lẽ cố nhiên là khi đồn trú tại An Điền, rồi sau Tăng Nhơn Phú Thủ Đức bộ đội đã có khá nhiều vũ khí “ăn chùm” những bộ đội Cộng Sản như Đào Sơn Tây, Tô Ký Thủ Dầu Một Huỳnh Tấn Chùa Một sự tình cờ đặc biệt khiến cấp lãnh đạo An Điền ngạc nhiên Một chiều Tám Sanh, Trưởng ban tình báo và liên lạc của bộ đội đưa về bộ Tổng Tham Mưu một người Nhựt cao lớn, nhưng nét mặt còn đầy vẻ thư sinh, mang theo cả năm khẩu vừa súng trường vừa súng lục, nói muốn gia nhập kháng chiến Việt Nam. Thời đó, người ta có thể giết chết cả mười người để lấy một khẩu súng thì một người tới với năm khẩu súng đáng được coi như thượng khách. Tiệc liên hoan đã qua, trong văn phòng bộ Tổng Tham Mưu chỉ còn vài người, “khách” mới nhỏ nhẹ thưa bằng tiếng Việt khá rành rẽ – Tôi có thể nói với ông chỉ huy trưởng một việc riêng. Bùi Hữu Phiệt đáp – Được. Nơi đây chỉ còn những người có đầy đủ trách nhiệm. “Khách” móc trong túi ra một bức thư dài kiểu Á Đông, nhưng phía dưới có ấn vuông lớn, dấu son và chữ ký nghiêm trang, không khác gì một sắc phong của nhà vua, hai tay cầm kính cẩn dâng lên. Bùi Hữu Phiệt, giỏi chữ Nho, giỏi chữ Nhật, mới liếc qua bức thư, đã giật mình đây là bức thư của Đại Tướng Sato, Tổng Tư Lệnh quân đội Hoàng gia Nhựt tại Đông Nam Á cho phép Trung úy Nam Tước Watanabe Hitomi được “đào ngũ” tham dự kháng chiến Việt Nam đánh đuổi đế quốc Pháp vì đó cũng là chủ trương “Đại Đông Á” của Nhựt Hoàng. Bức thư còn nói rõ, nếu Trung úy Nam Tước Watanabe tham dự bộ đội An Điền của Đại Việt Quốc Dân Đảng là điều Đại Tướng rất mong muốn. Công việc đầu tiên của Nam Tước Watanabé Hitomi là đi chiếm hầm vũ khí của Nhựt chôn dấu ở vườn cao su Bình Thung và Bình Thắng cũng thuộc quận Thủ Đức. Trung úy NamTước Watanabé hỏi Bùi Hữu Phiệt – Ở đây “Tư Lệnh” có bao nhiêu lính và bao nhiêu súng ? Bộ bội An-Điền lúc đó còn được mệnh danh là “bộ đội Bắc bộ” vì hầu hết các cấp chỉ huy và chiến sĩ đều là người Bắc, chiến sĩ phu đồn điền cao su Pháp gốc người Bắc. Lý do lúc đó tại Saigon, Phong trào chống người Bắc dâng cao nếu người trong bộ đội hầu hết là người Bắc thì tránh khỏi cảnh đầu thú về hàng và buộc họ sống chết với kháng chiến. Bùi Hữu Phiệt không chút ngần ngại, nói rõ về nội bộ. Trung úy Nam Tước Watanabé Hitomi, về sau này mang tên bình dân”Anh Bê”, đáp ngay – Tôi sẽ đưa một số huấn luyện viên quân sự tới đây và nhất là mang nhiều súng về. Anh Bê đã giữ lời hứa. Vài ngày sau, qua sự chỉ dẫn của anh Bê, Tám Sanh đưa về bộ đội nhiều “người bạn Nhựt” có người chuyên môn về tình báo vì đã hoạt động trong Hiến binh, có người đặc trách về huấn luyện quân sự đánh trận địa chiến cũng như du kích chiến. Một công tác đặc biệt nhất của anh Bê là đã dám cùng một người bạn trẻ trong Bộ Tham Mưu đi từ Tăng Nhơn Phú qua rừng cao su Bình Thắng, hậu cần quan trọng nhứt của quân đội Nhựt tại miền Đông để xin súng. Anh Bê mặc bộ đồ bà ba đen của kháng chiến quân, thủ khẩu súng lục nơi bụng, nhưng lại đeo thanh trường kiếm, thanh kiếm gia truyền được Nhựt Hoàng ban tặng của giòng họ quý phái Watanabé. Trong binh đội Nhựt, từ Trung sĩ trở lên đã có quyền đeo gươm nhưng giá trị của thanh gươm đó lại ghi thực rõ nơi chuôi qua mầu sắc của tua kết, qua sự chạm trổ, và nhất là qua những viên ngọc bích gắn nơi đó. Chỉ là một Trung sĩ thôi, nhưng nếu đeo thanh gươm do Nhựt Hoàng đã ban tặng, thì khi gặp thượng cấp kể luôn cả vị Tướng, thì chính vị Tướng này chào trước, chào thanh gươm như trong binh đội Pháp, các cấp bậc đều phải chào “chiến sĩ bội tinh” Médaille militaire. Anh Bê tới cửa trại Bình Thắng, người lính gác nhận ngay giá trị của thanh gươm, nhưng vẫn nghi ngờ rằng chủ nhân của nó là người Việt nên hô nhiều câu tiếng Nhựt. Anh Bê xưng danh tánh và cấp bực trong quân đội Hoàng gia. Tức khắc viên Tư Lệnh doanh trại được thông báo và một cuộc đón tiếp cho đúng nghi lễ, tuy đơn sơ, dành cho một vị Nam Tước được diễn ra. Anh Bê nói rõ mục đích tôi xin súng cho kháng chiến quân. Viên Tư Lệnh doanh trại với cấp bậc Đại tá, đưa hai tay liên tiếp vò cái đầu trọc, lẩm bẩm”khó quá, khó quá”. – Tại sao khó ? – Cách đây một tuần nội vụ giải quyết quá dễ dàng. Tôi đưa cả xe lớn chở đầy súng tìm “một hai” Thanh Niên Tiền Phong để cho nhưng sau đó, được thượng lệnh, đã khai số vũ khí còn lại với Đồng Minh rồi. Nếu ngày họ giải giới… Anh Bê hiểu ngay vấn đề thực khó khăn vì đã biết quá rõ quân kỹ của binh đội, sự thất vọng hiện trên nét mặt. Vị Đại tá Tư Lệnh doanh trại như thông cảm với Nam Tước Watanabé anh Bê nói ngay – Tất cả súng đạn hiện nay đều tập trung tại kho Bình Thung, cùng trong rừng cao su, cách đây 5 cây số. Nam Tước biết nơi đó không ? – Biết. – Hôm nào Nam Tước muốn lấy hết kho súng đó ? Anh Bê mừng rỡ – Đại tá cho phép… – Không cho phép gì cả. Ngày nào Nam Tước muốn chiếm kho súng đạn đó, tôi sẽ hạ lệnh chỉ để hai người lính lại thôi. Nam Tước đưa người tới giết lính gác để đoạt súng, tôi nhắc lại giết họ để có bằng cớ nói với Đồng Minh. Anh Bê quay lại hỏi người bạn Việt đồng hành. Thấy nét lưỡng lự trên mặt người thanh niên, Đại tá Tư Lệnh doanh trại nói ngay – Tôi hiểu, ông không nỡ quyết định giết hai người lính gác nhưng ông hiểu rằng với số súng đạn đó trong tay, kháng chiến quân sẽ giúp được bao nhiêu ngàn người dân Việt khỏi bị Pháp giết? Nếu chỉ giúp được hai ngàn người khỏi bị chết đói với hai người lính Nhựt, cũng là điều quá vinh dự cho chúng tôi. Chính vì những lý luận đó mà An Điền Trung Đoàn 25 Bình Xuyên sau này nhiều súng hơn lính. Và cũng chính vì vậy mà Khu trưởng Nguyễn Bình năng lui tới với anh em trong Liên Quân Quốc Gia Kháng Chiến nhất là tìm đủ mọi cách làm thân với các thanh niên trong bộ tham mưu của An Điền. Những chàng trai trẻ này biết rõ về dĩ vãng của Nguyễn Bình, lại là cán bộ của Đại Việt Quốc Dân Đảng mà lý thuyết “dân tộc sinh tồn” trái ngược hẳn với chủ nghĩa Mác Lê, nên không ưa Khu trưởng khu 7 nếu không muốn nói rằng là thù nghịch. Trước thái độ “hiếu khách vì là chủ nhà” của Mười Trí, trước những ngăn cản của “các anh lớn” họ không dám công khai tranh luận với Nguyễn Bình. Tuy nhiên, họ cũng bàn luận riêng với nhau, xếp đặt một kế hoạch đặt tất cả “các anh lớn” trước một việc đã rồi là mưu đồ lén lút hạ sát Khu trưởng. Qua quá nhiều các cuộc gặp gỡ và thảo luận với anh em Liên Quân trong bầu không khí được coi là cởi mở và nể nang, Nguyễn Bình tin tưởng tới mức độ là báo trước các cuộc viếng thăm để anh em Liên Quân sửa soạn đón tiếp. Nguyễn văn Thắng cho hay hai hôm nữa, Khu trưởng Nguyễn Bình sẽ từ Tân Uyên tới thăm anh em Liên Quân tại ấp số 8, Phú Lâm. Liên Quân hoan hỷ đón nhận tin này nhưng “mỗi giới” hoan hỉ một khác. “Giới già” như Mười Trí, Tư Đức, Tám Phiệt, Giáo Thảo nghĩ ngay tới việc hân hạnh được Khu trưởng luôn luôn viếng thăm; sẽ có những tin tức mới, sẽ có những cuộc thảo luận sôi nổi mới. “Giới trẻ” hoan hỉ vì biết được trước ngày giờ mà Khu trưởng Nguyễn Bình sẽ vô tình dấn thân vào trước các họng súng của họ. Đúng ngày Nguyễn văn Thắng đã loan báo, bộ Tham Mưu của Trung Đoàn 25 đột nhiên vắng vẻ vì khi mặt trời vừa lặn, nhiều anh em, bỏ cả bữa cơm tối, rủ nhau đi… uống cà phê. Sự việc này cũng thông thường. Sau những giờ làm việc, đêm là ngày, nếu không phải phục kích nơi đâu hay tấn công địa điểm nào, anh em trong bộ Tham Mưu có quyền đi… uống cà phê, đồng nghĩa với giao thiệp ngoài đời hay nôm na là đi “o mèo” giải quyết sinh lý. Chính Mười Trí đã nhiều lần, trên chén rượu, tuyên bố – Mấy em còn trẻ, sao “hèn” thế ? Hồi “qua” bằng tuổi các em, có đêm nào “qua” ở nhà mà ngủ yên được ? “Qua” không chịu các cuộc “lộn xộn” trong bộ đội thôi, còn ra ngoài thì thả dàn. Mười Trí đôi khi còn khuyến khích bằng cách hạ giọng thì thầm – Tụi bay, nếu có “món nào” ngon lành cho “qua”… biết miễn là đừng báo cáo cùng mẹ con Liên. Má con Liên là vợ chánh thức của Mười Trí. Bởi vậy sự vắng mặt của một số anh em “đi uống cà phê” không làm cho “các anh lớn” trên chiếu rượu chiều hôm đó thắc mắc. Trăng xanh mát đã vượt qua ngọn các vuông tre. Tham Mưu trưởng của Trung Đoàn 25 chưa tới 23 tuổi, nhưng đã vì thời thế, theo học qua các khóa quân sự của Đại Việt và của Nhựt, đưa mắt nhìn địa thế rồi vẫy bốn anh em lại gần. Họ ngồi trên mặt đất. Viên Tham Mưu trưởng dùng cây khô vẽ lên các vị trí phục kích. Viên Tham Mưu trưởng giải thích – Theo lời của Nguyễn văn Thắng loan báo, thì Nguyễn Bình sẽ tới địa điểm này trước hay sau một chút nửa đêm. Không ai đạp gai, lội ruộng để tới ấp số 8. Nguyễn Bình và Thắng nay thêm vài tên cận vệ nữa sẽ đi trên con đường mòn trước mặt chúng ta. Anh em đã nhận thấy chỗ phục kích của mình chưa ? Từng lãnh vai trò quan trọng trong bộ Tham Mưu nhưng không phải chỉ chuyên lo “cạo giấy”, và tham dự với tính cách chỉ huy nhiều trận đánh, cán bộ theo viên Tham Mưu trưởng đưa mắt nhìn quanh đã biết ngay vị trí thuận tiện trong cuộc phục kích như người ta dành chỗ tốt để… lãnh phát chẩn. Sự sốt sắng này khiến anh Tham Mưu trưởng hài lòng – Các em núp cho kỹ sau gò mối. Cần nhớ rõ điều này là trăng sáng sẽ “hất” bóng các em về phía sau dễ làm cho một kẻ tinh mắt và kinh nghiệm chiến trường nhận thấy ngay. Quan sát một lần nữa, viên Tham Mưu trưởng tiếp – Phục kích như vậy, đúng vị trí rồi. Các em chỉ nổ súng khi “họ” đã lọt vào đây viên Tham Mưu trưởng đứng vào vị trí lựa chọn rồi mới nổ súng theo kiểu đan lưới. Với những khẩu “gà cồ”trung liên Thompson, theo tiếng lóng của kháng chiến vì súng nổ nghe “cộc, cộc, cộc” như tiếng gà cồ dụ mái,”họ” không thể thoát khỏi lằn đạn của chúng ta. Trời thực cao, xanh và trăng thực sáng làm cho cảnh vật đều mang vẻ quá dịu hiền, trái hẳn với màn lưới vừa được giăng ra để đi tới máu lửa. Bầu không khí hoàn toàn yên tĩnh, tiếng gió rạt rào lay khẽ các cành cây cũng vang dội như tiếng sóng đập vào bãi biển. Theo với ánh trăng, bốn bóng đen to lớn, dài như bất tận, đã hằn in trên nền cát vàng óng ánh của đường mòn dẫn tới ấp số 8. Đã quá quen thuộc, đội phục kích nhận rõ ngay rằng hai bóng đen đi đầu là Nguyễn Bình và bí thư Nguyễn văn Thắng, những bóng đi sau không “chối cãi” được vai trò vệ sĩ của mình qua khẩu súng trường cao lêu khêu đeo trên vai. Mỗi bước chân tiến của “họ” đập mạnh trên đường mòn hòa nhịp với những kẻ phục kích. Những “con mồi” một lúc một tới gần, những bàn tay của những kẻ phục kích mỗi lúc một thêm siết chặt báng súng. Nhưng đột nhiên, có tiếng nói lào xào, có tiếng chân từ phía sau những kẻ phục kích vọng tới. Như vây phải chăng đã có “nội thù” báo cho Nguyễn Bình biết trước cuộc phục kích này ? Như vậy, phải chăng những kẻ phục kích lại lọt vào ổ phục kích của Nguyễn Bình? Chỉ huy trưởng cuộc hạ sát Nguyễn Bình trên đường vào ấp số 8 vô cùng hồi hộp trước thế “lưỡng đầu thọ địch”. Bỗng tiếng nói quen thuộc vang lên – Chắc chắn chỉ một, hai phút nữa Khu trưởng sẽ tới đây. Có tiếng đáp lại – Dạ Khu trưởng đã tới nơi đầu đường rồi. Những bóng đen đứng khựng lại như ngạc nhiên trước sự xuất hiện bất thần của một tiểu đội võ trang. Mười Trí cười lớn, tiến mau lại – Chúng tôi đi rước Khu trưởng. Sao Khu trưởng tới trễ thế, đi đường gặp khó khăn gì không? Nguyễn Bình cũng tiến mau lại, nắm lấy tay Mười Trí – Chúng tôi đi đường bình yên. Sao lần này lại phiền anh Mười… – Có gì đâu mà Khu trưởng để tâm. Tôi vừa nhận được tin liên lạc cho biết quãng đường này rất có thể không yên nên phải phòng xa. Mười Trí lại cười – Phòng xa vẫn hơn. Rủi có một sự gì đáng tiếc xảy ra ngay trên mảnh đất chúng tôi kiểm soát thì thực là mang tiếng… Nguyễn Bình đi theo Mười Trí về ấp số 8, cười nói luôn miệng. Đoàn người đi qua “tử địa” mà đám quân phục kích không dám nổ súng. Chờ tới khuya, viên Tham Mưu trưởng mới hạ lệnh cho anh em rút lui. Câu hỏi “tại sao Mười Trí đích thân đi đón Nguyễn Bình” quay cuồng trong đầu ? Lần này Nguyễn Bình chỉ ở chơi có một ngày rồi lại hấp tấp trở về khu bộ, nhưng chắc chắn trong 24 giờ qua đã nói nhiều chuyện quan trọng với Mười Trí nên Mười Trí dầu bản chất mộc mạc, ưa vui đùa cũng không dấu được sự lo âu loé trên khoé mắt. Nguyễn Bình đã ra đi rồi, Mười Trí mới cho gọi vịTham Mưu trưởng Trung Đoàn 25 tới ngồi riêng trong phòng đàm luận. Mười Trí nói ngay – Tại sao em lại hành động như vậy ? Vị Tham Mưu trưởng… ngây thơ – Thưa anh Mười…. hành động gì ạ? Mười Trí nghiêm giọng – Nếu “qua” không phát giác kịp thì bây giờ biết bao nhiêu chuyện đã xẩy ra. Như không muốn cho đàn em đóng vai trò “ngớ ngẩn”, Mười Trí tiếp – Tối hôm đó, “qua” có chuyện phải cần tới mấy em, cho mời thì em cùng bốn người nữa, tuyền là “thứ dữ” trong bộ Tham Mưu đều đi khỏi. Tối không có công tác định trước, các em rủ nhau “đi uống cà phê” tiếng lóng trong kháng chiến đồng nghĩa với đi o mèo cũng là sự thông thường. Công việc “qua” muốn nhờ các em quá quan trọng nên phái liên lạc đi kiếm các em ở những nơi “thông thường” nhưng mọi người đều quả quyết từ chập tối không thấy một em nào lảng vảng tới đó. “Qua” chợt nhớ rằng đêm đó Khu trưởng tới thăm như đã báo trước. Điều này các em cũng biết. Các em lại không ưa gì Nguyễn Bình vì Nguyễn Bình, dầu là khách đã công khai chèn ép các em ngay nơi đây. Nghi ngờ thoáng trong đầu, qua cho kiểm soát lại vũ khí thì em Chỉ huy trưởng Trung đội Thompson phòng thủ bộ Tham Mưu cho biết, các em, ngoài súng lục vẫn có, mỗi người còn lấy ở Trung đội này một khẩu “Gà Cồ” đem theo nữa. Như vậy, các em đi đâu, nếu không phải là … ra trận ? Vị Tham Mưu trưởng nín lặng, công nhận tài nhận xét rất đúng và hành động cấp thời hữu hiệu của Mười Trí. Y hơi ngạc nhiên thấy giọng trách móc của Mười Trí quá hời hợt, khác hẳn với ngày thường nặng nề và đôi khi tục tằn. Dường như Mười Trí hối tiếc một việc gì ? Vị Tham Mưu trưởng dọ dẫm – Nếu Nguyễn Bình bị bắn hạ đêm đó thì đã giải quyết được cho anh Mười nhiều sự khó khăn. Mười Trí thở dài không đáp. Vị Tham Mưu trưởng hỏi tiếp – Nguyễn Bình đã đề nghị với anh Mười những việc gì ? Một lần nữa Mười Trí nhẹ thở dài nhưng cũng đáp – Nguyễn Bình không đề nghị gì cả mà chỉ thông báo cho “qua” biết rằng thằng Bảy Bảy Viễn đã thoả thuận với y, đưa thằng Tư Tư Tỵ từ Bình Xuyên về đây làm Tư Lệnh phó Trung Đoàn 25. Nguyễn Bình nhờ “qua” “giải thích” cho anh Tám Phiệt rõ để anh Tám nhận lời. – Nghĩa là Nguyễn Bình muốn đưa anh Tư tới kiểm soát, kiềm chế anh Phiệt? Mười Trí gật đầu – Nguyễn Bình giải thích rằng thằng Tư sau trận đánh vừa qua ở Bến Tre, lực lượng tiêu hao quá nhiều. Không còn đủ sức tung hoành nữa, cần dựa vào bộ đội hùng hậu nào đó để…. hồi sinh, bổ sung lực lượng nhưng “qua” hiểu, thâm ý của Nguyễn Bình là đưa thằng Tư kiềm chế anh Phiệt, hay hơn nữa tước đoạt quyền của anh Phiệt. – Anh Mười tính sao ? Mười Trí trầm ngâm vài giây – Thực ra, đối với thằng Tư không đáng ngại. Vài hôm nữa, nó sẽ tới đây với một tiểu đội, với chứng minh thư của Khu trưởng “phong” làm Trung Đoàn phó Trung Đoàn 25. Với lực lượng đó, nó khó mà làm gì được anh Phiệt. Hơn nữa dầu sao nó cũng là một trong mười con Rồng Xanh của Bình Xuyên, chắc không hành động xấu xa. Mà dầu nó có tâm địa nào đi chăng nữa, thì còn “qua” đây. “Qua” nhất định không để cho nó toại ý. Em về thưa rõ với anh Phiệt như vậy. Tuy nhiên… – Thưa anh Mười còn điều gì nữa ? – Tuy nhiên, qua nghĩ rằng đây là cuộc thử thách, dọ dẫm đầu tiên của Nguyễn Bình đối với Trung Đoàn 25, được đằng chân, chắc chắn Nguyễn Bình sẽ lấn đằng đầu, gây thêm nhiều khó khăn nữa cho anh Phiệt. Cần phải đề phòng kỹ những gì sẽ xẩy ra. Đúng như lời Mười Trí tiên đoán, Tư Tỵ danh chánh ngôn thuận tới lãnh chức Trung Đoàn phó Trung Đoàn 25 và được từ Mười Trí, Bùi Hữu Phiệt cùng các anh em khác vui vẻ đón tiếp. Tư Tỵ về với Trung Đoàn 25 có tánh cách “tỵ nạn” hơn là tìm cách đoạt quyền hành. Cả nửa tháng trôi qua, Tư Tỵ không đi tới các trại đồn binh để rõ thực lực Trung Đoàn ra sao, nhưng không phải vì vậy mà làm cho anh em Trung Đoàn yên lòng. Trong thời gian này, Nguyễn Bình có tới thăm Trung Đoàn 25 một lần nữa. Nguyễn Bình hài lòng vì mọi việc đều êm đẹp như ý mình đã xếp đặt. Cũng trong thời gian đó Dương văn Hà tức Nam Hà, Tư Lệnh Bình Xuyên sau khi người anh ruột là Dương văn Dương tức Ba Dương bị tử nạn tại Bến Tre, cùng Lê văn Viễn tức Bảy Viễn Khu phó Khu 7 kiêm Tư Lệnh phó Bình Xuyên tới chúc mừng Tư Tỵ. Năm Hà cũng bị Nguyễn Bình đặt vào trong tình thế khó khăn. Với danh nghĩa là Tư Lệnh Bình Xuyên nhưng quyền hành tại Nam bộ lại thua Tư Lệnh phó Bảy Viễn vì Bảy Viễn là Khu phó khu 7. Như vậy, trên danh nghĩa chính Bảy Viễn chỉ huy. Năm Hà quá hiền lành, thực quyền nơi Bình Xuyên đều nằm trong tay Bảy Viễn. Bảy Viễn chịu ảnh hưởng Nguyễn Bình, đi cặp kè với Nguyễn Bình, Bình Xuyên chắc chắn sẽ có ngày tan vỡ, lâm nguy. Bởi vậy, lần này, cuộc mưu sát Nguyễn Bình, vẫn do anh em trẻ tuổi trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 chủ trương, gần như mặc nhiên được Mười Trí tán thành. Cuộc phục kích lần này được tổ chức kỹ lưỡng …nhưng trên con đường mòn từ Long An về Phú Lâm… Trời mưa rả rích từ chập tối. Bầu trời như quá thấp, có thể đưa khẩu súng lên “quơ” cũng đụng mây đen bay là tà trên khoảng đồng trống. Sấm nổ rền càng làm cho bầu không khí của cuộc phục kích thêm thuận tiện. Người chỉ huy đảo mắt nhìn quanh, trước khi chỉ chỗ cho anh em phục kích, hạ lệnh – Phải bắn chết hết những người đi cùng Nguyễn Bình tới đây. Hừ, quanh chúng ta có tới bốn cái cái giếng cạn, đủ làm “mồ yên mả đẹp” cho nhiều người. Khi “họ” đã nằm xuống, giếng cạn sẽ “đón” họ ; vài tảng đá, vài mô đất đắp theo, như vậy đã kín “đẹp” có thể vài năm nữa hay vài thế kỷ nữa cũng không ai phát giác ra họ. Trời càng về khuya, mưa càng nặng hạt. Đoàn người phục kích vẫn không sờn lòng, vẫn không cả nhúc nhích mặc cho gió tạt mưa vào mặt lạnh ngắt và đau buốt. Họ chỉ chú ý tới việc giữ sao cho súng đạn được khô ráo. Một tia chớp loé lên. Họ giật bắn mình vì cách họ không còn xa, bốn bóng đen, đội nón lá đương xăm xăm rảo bước. Lúc này họ lắng tai nghe. Thính giác, đối với họ, cũng có thể coi như “cái thước” đo đúng khoảng cách giữa tầm súng của họ với những người đương đi. Một tiếng hô át cả mưa gió – Bắn Và những tràng trung liên nổ liên tiếp át cả tiếng sấm. Có tiếng hét trong đau đớn, tuyệt vọng – Tại sao… tôi… Giọng hét quá xa lạ giữa lằn chớp nhoáng quá dài. – Lầm rồi, không phải… – Súng hướng về phía trước. Đèn bấm chiếu… Bốn người mặc bà ba đen quằn quại sình lầy. Những tiếng rên yếu dần, những làn hơi thở mỗi lúc một gấp rút chứng tỏ họ sắp trút linh hồn. Những chiếc nón lá đã văng ra, lật ngửa, đón mưa khuya đương đổ xuống gõ thành nhịp trầm buồn. Ánh đèn bấm chiếu trên mặt những kẻ hấp hối. – Không có Nguyễn Bình… – Không có cả Nguyễn văn Thắng… – Họ là ai? – Lục xét trong người họ coi. Họ là ai ? Chứng minh thư trong người họ và một bức thư trong túi một người cho biết họ chỉ là nhân viên liên lạc khu bộ và địa phương. Địa phương dẫn đường cho hai liên lạc khu bộ, mang bức thư của Nguyễn Bình tới Mười Trí xin lỗi đã thất hứa vì công việc bắt buộc phải ở lại Long An trong hai ngày nữa nên không thể tới thăm đúng hẹn. Ngày mai, Nguyễn văn Thắng sẽ tới giải thích và xin lỗi. Giọng nói thất vọng nổi lên – Bây giờ tính sao anh ? Người chỉ huy cuộc phục kích lưỡng lự. Hai vấn đề cần được giải quyết gấp trả lại giấy tờ cho những xác chết để nằm đó, nội trong ngày mai sẽ có người phát giác. Dư luận sẽ cho rằng họ bị quân Pháp hay “pạc ti dăng” người Việt đi lính cho Pháp tức thân binh phục kích bắn chết. Nhưng điều này hơi khó tin vì thông thường Pháp và “pạc ti dăng” không bao giờ, hay chỉ trong trường hợp đặc biệt mới hành quân ban đêm. Nếu bỏ họ xuống giếng lấp đá, đất lên thì cũng chỉ nội trong ngày mai tin những liên lạc khu bộ và địa phương không tới ấp số 8 cũng được Nguyễn văn Thắng biết và loan truyền đi khắp nơi. Công an Việt Minh bắt buộc phải mở cuộc điều tra và tìm ra cái xác chết nằm dưới đáy giếng cũng chẳng khó khăn gi. Giải pháp thứ ba bỏ “họ” xuống giếng rồi về cho Mười Trí hay rằng đã nhận được thư của Nguyễn Bình, các liên lạc viên trở về khu bộ địa phương. Cũng không ổn vì trong thư Nguyễn Bình còn nói rõ “phiền anh Mười “nuôi cơm” các em liên lạc hai ngày vì tôi còn cần gấp tới họ”. Điều này chắc chắn Nguyễn Bình hay Nguyễn văn Thắng đã nói cho các liên lạc viên rõ thì bất luận lý do gì họ cũng không dám rời Phú Lâm trước khi Nguyễn Bình tới. Chỉ còn một phương pháp “kéo dài thời gian”. Người chỉ huy cuộc phục kích hạ lệnh – Bỏ tất cả xuống giếng cạn, lấp đất lên. Gần sáng hôm đó, đoàn người phục kích mới trở về bộ đội. Họ lăn ra ngủ và cho tới khi Nguyễn văn Thắng tới thăm họ cững không báo cáo nội vụ tới Mười Trí. Tin liên lạc không đưa thư của Nguyễn Bính tới Mười Trí nổ như tiếng sét giữa bầu trời quang đãng. Ai cũng hiểu rằng sự việc này bao trùm một bí mật vô cùng quan trọng vì không bao giờ các liên lạc viên, nhất là liên lạc khu bộ, những người được lựa chọn kỹ lưỡng đóng vai trò phối hợp hành động của Nam Bộ lại không làm tròn nhiệm vụ, trừ trường hợp bị bắt hay giết ở dọc đường. Nguyễn văn Thắng, sau ít lời xin lỗi thông thường, tức khắc xin từ biệt Mười Trí… Tin khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình bị ám sát hụt đương lan ra mau lẹ và mãnh liệt như ngọn lửa đã châm trên ngòi của các thùng thuốc súng. Nguyễn Bình, sau những vụ đụng độ với Sư đoàn Sao Trắng tại Đông Hưng và Móng Cáy Bắc Việt sau sự bắt buộc phải thay đổi chánh sách đi tới liên hiệp với các đảng phái quốc gia, của chánh phủ Hồ chí Minh, đã phải đóng vai trò “vô danh tiểu tốt” trong phái đoàn Bắc bộ, do Lê Duẫn chỉ huy để vào Nam. Tuy nhiên khi tới mảnh đất của Bến Nghé rồi, thì tên “vô danh tiểu tốt Nguyễn Bình” thoát xác, quyền hạn còn nhiều hơn cả Lê Duẩn. Sở dĩ có sự “lột xác” bất ngờ này là vì Hồ chí Minh muốn tránh cho Nguyễn Bình tất cả những sự bất trắc có thể xảy ra ở dọc đường do hậu quả của cuộc đụng chạm với Sư đoàn quốc gia Sao Trắng. Thời bấy giờ tuy trên danh nghĩa là Việt Minh nắm chánh quyền “toàn cõi Việt Nam độc lập” nhưng trên thực tế thì trái hẳn lại bất luận Quốc gia hay Cộng sản có vũ khí trong tay vẫn hùng cứ được một phương. Ông Hồ chí Minh đã biết rõ hơn ai hết về tình hình tại Nam Bộ. Trần văn Giàu, Ủy viên quân sự Nam bộ, ra Bắc ngay ngày đầu Miền Nam khói lửa, diễn thuyết nhiều về “Nam bộ oai dũng kháng chiến” nhưng những lời nói không che khuất được hết sự thực quá phức tạp tại Miền Nam. Trước nhà hát Tây Hà Nội, Trần văn Giàu đương diễn thuyết và tự coi mình như một “anh hùng kháng chiến Miền Nam” thì một trái lựu đạn quẵng lên dài. Kế đó Tư Thiên tức Maurice Thiên, một trong 10 con “Rồng Xanh” của Bình Xuyên và một vệ sĩ nhảy lên diễn đàn. Tư Thiên điểm mặt Trần văn Giàu – Anh kháng chiến ngày nào ở Nam bộ ? Anh bắn Tây phát nào ở Nam bộ, hãy nói rõ tôi nghe ? Thời đó, Bình Xuyên kháng chiến được Hà Nội thổi phồng và truyền tụng trong dân chúng. Tư Thiên lại là trưởng phái đoàn của Bình Xuyên kháng chiến từ Nam bộ ra Bắc nên tiếng nói của Tư Thiên rất giá trị Trần văn Giàu chịu thua Tư Thiên trước quần chúng. Chánh quyền Hà Nội dư biết rằng nói tới Nam Bộ kháng chiến chỉ để kích thích tinh thần người dân và thực tình nơi đây ra sao đều biết rõ. Bởi vậy Nguyễn Bình “thoát xác” khi tới miền Nam chỉ qua bức thư ngắn ngủi của ông Hồ chí Minh – “Chú Bình, Nam Bộ đương là nơi để anh hùng tạo thời thế, tôi giao Nam bộ cho chú”. —>Xem tiếp Pages 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Cách đây hai tháng, Sáu “Xếch xông”… mang “mỹ hiệu” này vì trước thời kháng chiến, làm tiểu đội trưởng Chef de Section cho Pháp đại diện cho Mười Trí, đi dự phiên họp quân sự khu 7. Khi trở về Ấp số 8, Phú Lâm nơi Trung Đoàn 4 đồn binh, sáu “Xếch xông” không dấu nổi sự băn khoăn, vui mừng lẫn lộn, khiến Mười Trí kéo vào phòng riêng hỏi – Sáu à có chuyện gì vậy mày ? – Thưa anh lớn… – Với tao như anh ruột màv, chuyện gì mày cũng có thể nói thiệt được. Điều này, sáu “Xếch xông” công nhận nên lưỡng lự một chút rồi nói rõ – Thưa anh lớn, cuộc họp tại khu bộ chẳng có gì quan trọng. Không hiểu sao Khu trưởng biệt đãi em. Cuộc họp chấm dứt, Khu trưởng lưu em lại một ngày để… nói chuyện. Mười Trí tánh nết nóng như lửa, ngắt ngang – Mà chuyện gì chứ? Sao mày ấp úng hoài ? – Thưa anh lớn, Khu trưởng đề nghị với em tìm bắt bộ chỉ huy của Trung Đoàn 25 giao cho Khu trưởng. Xong việc… Mười Trí đập bàn quát – Sao mầy không bắn vào đầu nó ? Mầy dư biết rằng tất cả anh em chỉ huy Trung Đoàn 25 là đảng viên Đại Việt, là đồng chí với tao mà! – Dạ, thưa anh lớn em biết nên mói không dám nhận lời. Mười Trí dịu giọng – Hay lắm, kể lại tao nghe tất cả những gì Nguyễn Bình đã nói với mày. – Thưa anh lớn, Khu trưởng nói rằng sau khi bắt hết bộ chỉ huy của Trung Đoàn 25 rồi em sẽ được thưởng đồng và tức khắc Khu trưởng phong cho em làm Tư lịnh Trung Đoàn đó, Khu trưởng có cho em, trước khi ra về, một khẩu “ngựa bay” và đồng gọilà… đặt cọc. Hôm nào em quyết định, Khu trưởng sẽ trao nốt số tiền còn lại… Hai mươi ngàn đồng, số tiền không phải nhỏ vì “lương” của một người lính kháng chiến, mỗi tháng chỉ là 60 đồng nếu bộ chỉ huy có tiền. Mười Trí hỏi tiếp – Ngày nào mày phải trả lời dứt khoát? – Thưa, đúng một tuần, trong kỳ họp quân sự lần thứ hai tại khu bộ. – Thôi được. Đừng nói cho bất luận ai biết. Tao cần đi gặp Bùi Hữu Phiệt gấp. Sáu “Xếch xông” la lên – Thưa anh lớn. – Yên chí. Có tao đây anh em Đại Việt không ai bắn mày đâu mà sợ… Và nếu bắn, thì chính tao đã bắn mày rồi. Mười Trí vội vã qua Ấp số 4, nơi Trung Đoàn 25 và 5 đồn binh, chỉ cách Ấp số 8 có con lộ trải nhựa. Sự qua lại giữa hai ấp, từ cấp chi huy đến binh sĩ là chuyện thông thường nên lính canh bồng súng chào mà không chút ngạc nhiên trước sự xuất hiện của Mười Trí. Mười Trí đi thẳng tới Tổng hành dinh của Trung Đoàn 25, đưa mắt nhìn mọi người đương làm việc rồi nói. – Các em. Qua có chuyện riêng muốn nói với anh Phiệt vài phút. Mười Trí nói với Bùi Hữu Phiệt bằng giọng ỡm ờ – Anh Phiệt, dạo này có nhiều tiền xài không ? Bùi Hữu Phiệt lắc đầu – Tháng này các anh em ở thành chưa cho người tới tiếp tế. Trưng đoàn 25 tức bộ đội An Điền đặt dười quyền chỉ huy của Đại Việt Quốc Dân Đảng Xứ Bộ Nam Việt, nên thường được Đảng tiếp tế tiền bạc và vũ khí. Mười Trí vẫn giọng cười đùa cợt – Tôi cho anh đồng, chịu không ? Bùi Hữu Phiệt ngạc nhiên trước số tiền lớn lao, trố mắt hỏi lại – Thiệt không ? Tiền đâu mà anh Mười có nhiều vậy ? Trung Đoàn 25 liên minh với Bình Xuyên và mang danh là của Bình Xuyên nên sự trợ giúp lẫn nhau là chuyện thông thường. Mười Trí cười. – Thiệt chứ. Đó là phân nửa số tiền tôi bán cái đầu anh cho Nguyễn Bình. Chờ cho Bùi Hữu Phiệt đã “tỉnh trí” Mười Trí mới kể rõ đề nghị của Khu trưởng Nguyễn Bình với Sáu “Xếch xông”. Bùi Hữu Phiệt trầm ngâm – Bây giờ anh Mười tính sao ? Giọng nói của Mười Trí trở lại vô cùng nghiêm nghị – Mình tương kế tựu kế. Tôi cứ sai thằng Sáu đi họp khu bộ kỳ tới, nhận lòi với Nguyễn Bình, lãnh tiền về rồi tụi mình chia đôi. – Như vậy không ổn. Nguyễn Bình bị lừa sẽ căm giận Sáu “Xếch xôn” sẽ trút tất cả thù hận lên đầu anh. – Tụi mình sợ gì ? Với Trung Đoàn 2,3, 4, 5 và 25 Bình Xuyên cộng thêm với anh em Cao Đài và Hòa Hảo kháng chiến,dư sức “ăn chung” đủ với Nguyễn Bình. – Nhưng mối thù hận sẽ kéo dài và cuộc thanh toán giữa kháng chiến với kháng chiến chẳng ích lợi gì cho đất nước. Mười Trí gật đầu tán thành – Đúng. Vậy anh có kế hoạch gì khác không? Bùi Hữu Phiệt đảo mắt nhìn quanh như sợ “vách có tai” rồi mới nói nhỏ cho Mười Trí ra kế hoạch của mình. Mười Trí mừng rỡ lộ trên nét mặt – Đúng đúng. Nhổ cỏ phải nhổ tận rễ. Nhưng tại sao anh phải di binh ? Và tại sao lại phải cần tới Trình Minh Thế ? Bùi Hữu Phiệt giải thích – Ấp số 4 quá gần Saigon lại là “Tổng hành dinh” của anh, ” con mồi” chưa chắc gì dám tới, mà nếu có tới thì những gì xảy ra, anh lãnh đủ hậu quả. – Còn việc nhờ tới Trình Minh Thế ? – Đó là đòn “hư hư thực thực”. Trên phương điện công khai Cao Đài Kháng chiến lãnh hậu quả của vụ này, nhưng anh Thế đồn binh tại Dòng Lớn sát với Cao Miên, biên thùy một cõi, thì có thể bất chấp những gì xảy ra sau “vụ đó”. Một điều hợp lý hơn nữa là cả Nam bộ, ai cũng biết Nguyễn Bình và Trình Minh Thế có mối thù không đội trời chung. Mười Trí vỗ tay cười – Hợp lý. Nhưng ngày nào anh di binh? Bùi Hữu Phiệt cũng cười – Ngày mai anh Mười triệu tập một cuộc họp quân sự giữa Trung Đoàn 4, 5 và 25 đi. Anh đề nghị đánh Chợ Lớn. Tôi và anh Phạm Văn Đực phản đối đề nghị này. Chúng mình công khai công kích nhau, tôi gây sự bất hòa. Sau đó, tôi hạ lệnh di binh ngay, anh Đức cũng tách rời khỏi khu vực Phú Lâm. – Nhưng nếu anh Đức cùng đi với anh… – Anh Đức sẽ đi sau tôi một ngày và không đồn binh cùng một chỗ… Một lần nữa Mười Trí cười lớn – Tư Đức đồn binh ở địa điểm có thể tương trợ anh nếu Nguyễn Bình đưa quân của thằng Lê Hồng Giỏi, Huỳnh Tấn Chùa, Đao sơn Tây tới tấn công bộ đội anh chứ gì? – Dạ phải. – Thế còn vụ Trình Minh Thế ? – Tôi sẽ cho liên lạc ngay. Anh Thế gặp tôi ở nơi đồn binh mới. Mười Trí vui vẻ đứng dậy muốn ra về. Bùi Hữu Phiệt nói đùa – Anh Mười nhớ cho người mang đồng bán đầu tôi tới địa điểm mói nghe ? Cuộc họp quân sự tại ấp số 8 Phú Lâm nổi sóng. Lần đầu tiên Phạm Hữu Đức và Bùi Hữu Phiệt lớn tiếng công khai chỉ trích quyết định đưa quân tấn công Chợ Lớn của Mười Trí. Mười Trí, bằng những “danh từ Bình Xuyên” đã mạt sát Bùi Hữu Phiệt và Phạm Hữu Đức là thỏ đế. – Vậy mà cũng Tư lịnh này Tư lịnh nọ, cầm quân kháng chiến. Bùi Hữu Phiệt và Tư Đức giận dữ bỏ phòng họp đi thẳng một mạch về ấp số 4. Tấn tuồng họ đóng khéo léo tới mức không một ai nghi ngờ. Tư lệnh Trung Đoàn 25 hạ lệnh, chập tối hôm đó, phải cấp tốc di binh. Lưu Nhất tức Tiến,chỉ huy quân sự ngăn cản – Anh Sáu Bùi hữu Phiệt nóng quá. Để thủng thẳng bàn luận với anh Mười xem sao ? Sáu Phiệt cười lạnh lẽo – Thảo luận gì nữa ? Nội đêm nay anh Mười đưa quân đánh Chợ Lớn hay ít lắm cũng đánh Phú Lâm, thì sáng sớm mai Tây nó sẽ trả đũa, chúng mình ở đây hứng lấy cái chết hay sao ? Trung Đoàn 25 Bình Xuyên nhổ trại trước sự luyến tiếc của anh em chiến sĩ trong Liên Minh. Khuya đêm đó, họ tới nơi đồn binh đã dịnh, bến Lò Đường tại Vàm Cỏ Đông. Lưu Nhất tức Tiến mừng rỡ vì nơi đây là chỗ đồn binh lý tưởng. Lẽ cố nhiên, vì chiến thuật di động cần thiết cho du kích chiến, Bộ Tham Mưu đã phải định trước những địa điểm di và đồn binh, nhưng nơi vừa tới thực quá “đẹp”. Về đường bộ, nếu địch quân tới phải băng qua một cánh đồng rộng mênh mông và trơ trụi không thể nào lọt khỏi con mắt quan sát của tình báo hay tiền đồn. Về đường thủy, địch quân phải đi dọc theo sông Vàm Cỏ Đông, đổ bộ nơi bến Lò Đường cũng quá lộ liễu đối với tình báo, liên lạc viên của Trung Đoàn tung ra khắp nơi. Hơn nữa, bộ Tổng Tham Mưu được đặt tại căn nhà lớn, cách bến Lò Đường cả gần cây số ngàn. Muốn tới bộ Tổng Tham Mưu người ta phải băng qua nhiều khu đất trống, nhà cửa thưa thớt rồi cuối cùng vượt cây cầu gỗ khá lớn bắt ngang rạch mới tới tiền đồn của bộ Tổng Tham Mưu . Điểm đắc lợi nhất nơi đây là binh đội được đóng thành hình chữ I tại các căn nhà dọc theo bờ sông sình lầy, đầy dừa nước, số còn lại đồn trú nơi nội địa hình cánh cung. Như vậy dầu bị tấn công thì Trung Đoàn 25 cũng dư điều kiện thuận lợi để kháng chiến, có thua thì cùng đủ “đất” để rút lui một cách an toàn. Bùi Hữu Phiệt gọi vị chỉ huy quân sự tới – Anh cho liên lạc đi mời gấp Trình Minh Thế. – Thưa anh lớn… – Tôi đã thỏa thuận với anh Tư Đức về vấn đề tương trợ phía Nam nhưng còn phía Bắc cần anh Thế. Lưu Nhất cãi – Thưa anh Tư lịnh, phía Nam hay Bắc mà bị địch tấn công, với địa thế này, Trung Đoàn chúng ta cũng đủ sức tự vệ. Sáu Phiệt dịu đàng, một điều ít khi có trong những cuộc thảo luận với thuộc cấp – Tôi cũng biết vậy. Anh Tư Đức và anh Thế cũng là liên minh với tụi mình thì tính toán thế chân vạc tương trợ lẫn nhau vẫn hơn là tự mình phải đảm đương hết mọi chuyện. – Dạ đúng. Sáu Phiệt vẫn chưa muốn cho Lưu Nhất biết rõ bí mật đương được “dệt thành màng lưới ” nên đáp – Tấn mà thắng là điều mong muốn nhưng lúc nào tôi cũng nghĩ tới cái thoái an toàn của anh em. Lưu Nhất công nhận – Thưa anh lớn, tôi sẽ phái liên lạc đi ngay. Anh lớn có cần biên thư… – Khỏi cần. Liên lạc nói với anh Thế rằng “việc cay đắng” là đủ. Đó là mật hiệu giữa các vị Tư lịnh trong Liên Quân Quốc Gia Kháng Chiến miền Nam. Nhận được “mệnh lệnh tối khẩn ” Trình Minh Thế tức tốc tới bến Lò Đường. Bùi Hữu Phiệt hơi ngại vì Trình Minh Thế đem theo một tiểu đội cận vệ trong đó có cả Tư lệnh phó Cao Đài kháng chiến tên Luyến. Luyến nhiều tuổi hơn Thế nhưng lại nóng nảy, luôn luôn đeo trên vai khẩu súng trường của kỵ binh Nhựt. Luyến là tay thiện xạ, trong vòng 100 thước, chưa hề bắn phát nào không trúng đích. Nhiều người ngạc nhiên vì địa vị cao mà còn mang súng trường thì Luyến đáp – Nói thiệt với các anh, đi đường xa, thấy “cái gì” khả nghi trong 200 thước trở lại, với cây súng này, nếu tôi không bắn chết thì cũng làm “nó” bị thương. Trò chơi ưa thích nhất của Luyến là khi bắt được các cán bộ Việt Minh, sau cuộc điều tra, trói địch dưới gốc cây rồi tuyên án – Mày VM hạng nhẹ, tao bắn cháy tóc. Mày VM cỡ trung tao “xin” một tay. Mày nặng quá rồi, đạn phải ghim giữa trán. Không bao giờ “bản án đã tuyên” lại bị truyền thi hành sai lệch. Như hiểu ý Bùi Hữu Phiệt, Trình Minh Thế nói – Tôi có một chuyện rất khó, nói riêng với mình anh được không? Bùi Hữu Phiệt nhận lời ngay. Như vậy cuộc gặp gỡ tay đôi do khách đề nghị. Trung Đoàn 25 không còn lo đã tỏ ra coi khách kẻ trọng người khinh Khi chỉ còn hai người đối điện. Bùi Hữu Phiệt, kể tỉ mỉ về đề nghị của Nguyễn Bình với Sáu ” Xếch xông “, về mưu tính của Mười Trí và luôn cả tấn tuồng cãi lộn ở ấp số 8 Phú Lâm – Anh đảm nhiệm được vai trò quyết định đó không ? Trình Minh Thế trả lời ngay – Lẽ cố nhiên là được nhưng tại sao các anh dành cho chúng tôi ? – Điều đó cũng dễ hiểu. Nếu có sự nhúng tay lộ liễu của anh Mười Trí thì toàn thể Bình Xuyên sẽ lâm nguy vì địa điểm đồn binh của Bình Xuyên dễ bị tấn công. Hơn nữa, anh Mười không phải là Tư lệnh của toàn thể Bình Xuyên. Hậu quả xảy ra, Năm Hà, Sáu Đời, Tư Tỵ, Bảy Viễn có thể trách cứ anh Mười gây xáo trộn nội bộ. Trình Minh Thế gật đầu – Điều đó đúng, nhưng Sáu “Xếch xông”… – Anh Mười có thể đổ quấy rằng Sáu “Xếch xông” phản Trung Đoàn 4 Bình Xuyên. Trình Minh Thế mỉm cười, đăm đăm nhìn Bùi Hữu Phiệt – Sao các anh không tự giải quyết vụ nầy, nhất là Nguyễn Bình đã muốn “lấy đầu anh”? Tôi đã dự cuộc thi bắn có mặt cả Nguyễn Bình, các em của anh bắn còn chính xác hơn người khác ? – Đúng vậy, nhưng công khai, Nguyễn Bình chưa hề có điều gì thất thố với chúng tôi, trái lại bề ngoài lúc nào”Khu trưởng” cũng ưu ái. Trình Minh Thế phá lên cười – Mặc dầu chính các em anh đã một lần mưu sát Khu trưởng ? Bùi Hữu Phiệt thở dài – Phải, nhưng tất cả sự việc đó đều trong vòng bí mật mà chỉ chúng ta biết với nhau. Trình Minh Thế mơ màng – Tôi hoàn toàn tán thành vụ này nhưng tôi khó mà đích thân… Bùi Hữu Phiệt qua cuộc thi bắn đã biết rằng Trình Minh Thế rất giỏi về chỉ huy quân sự, nhưng tài súng sáu lại tầm thường, nên đáp – Tôi “biếu” anh một tay xạ thủ cừ khôi…. Như chợt nghĩ ra, Trình Minh Thế reo lên – Không cần. Tôi cũng có “quan dưới trướng” đáng mặt.. anh hùng. Bùi Hữu Phiệt nghiêm nghị – Anh hơn chúng tôi ở chỗ biên thùy một cõi. Vụ này vì đại cuộc. Trình Minh Thế ngắt lời – Tôi đã bằng lòng rồi mà. Một liên lạc của tôi sẽ để… anh nuôi cơm. Khi cần tức tốc nó về báo cáo. Anh tin đi, tôi xếp đặt mọi chuyện thực chu đáo. Nhưng một tuần sau cuộc thảo luận giữa Bùi Hữu Phiệt và Trình Minh Thế trôi qua, nước sông Vàm Cỏ vẫn êm dịu chảy, mây trắng vẫn bay mà chưa có tin của Mười Trí. Mười giờ sáng hôm đó, hai chiếc xuồng ba lá, dài và to hơn xuồng thông thường, cặp bến Lò Đường. Hơn một tiểu đội, đội nón lá lụp xụp, mặc tuyền bà ba đen, võ trang tiểu liên lăm lăm trên tay trừ hai người chỉ huy đeo súng lục, vội vã bước lên bờ. Người đi đầu bỏ nón lá ra, vẫy vẫy như chào những người lính gác vọng đầu và được kính cẩn chào lại vì người đó là Sáu “Xếch xông” quá quen thuộc với anh em Trung Đoàn 25. Đoàn người tiến mau vào nội địa. Còn cách cây cầu vài trăm thước, Sáu “Xếch xông ” quay lại nói nhỏ với người đeo súng lục. Người này gật đầu, bỏ hàng ngũ, một mình tiến vào tòa Miếu hoang gần đó. Sáu “Xếch xông” tiếp tục hướng dẫn tiểu đội tiểu liên nhắm hướng cầu thẳng tiến. Người ở lại đã vào trong Miếu, bỏ nón lá xuống. Y cao lớn, đeo cặp kiếng đặc biệt nửa trên màu đen thẳm, nửa dưới màu xanh nhạt. Khẩu súng đeo bên hông của y cũng khác thường, khẩu Wicker, nòng quá dài, khẩu súng tùy thân của những người săn sư tử bên Phi Châu. Y đảo mắt nhìn quanh, rồi như linh tính báo động, quay ngoắt lại – Anh là ai ? Kẻ mới xuất hiện nơi ngưỡng cửa Miếu, cũng mặc bà ba đen nhưng không đội nón lá, và tay cầm khẩu Colt 11,45 lễ phép đáp – Thưa Khu trưởng… – Anh biết tôi ? Anh đến đây làm gì ? – Thưa Khu trưởng, vâng lệnh các anh lớn trong Liên Minh Quốc Gia Kháng Chiến, và của anh Tư lệnh tôi…. Nguyễn Bình ngắt lời – À tôi nhớ ra rồi. Anh là người của Trình Minh Thế đã tham dự cuộc bắn thi ở Rừng Thơm. – Dạ phải. Thưa Khu trưởng tôi đến đây để xử tử Nguyễn Bình. Phản ứng của Nguyễn Bình thực mau lẹ, nhảy xéo qua đưa tay rút súng nhưng kẻ thi hành án lệnh còn nhanh hơn, bắn viên đầu trúng bả vai phải của Nguyễn Bình và ngay phát sau trúng ngực trái. Nguyễn Bình bỏ chạy về phía tượng Phật nhưng chỉ còn đưa tay trái ra nắm lấy chân tượng rồi từng phân một quỵ xuống, cuối cùng ngã ngửa trên sàn gạch rêu đã phủ xanh. Kẻ thi hành án lệnh muốn bắn thêm “phát ân huệ “. Từ phía cầu, tiểu liên nổ ròn tan và liên tiếp kế tiếng chân vội vã chạy về phía Miếu hoang. Kẻ thi hành án lệnh mỉm cười, đi về phía sau Miếu rồi mất dạng. Các vệ sĩ của Nguyễn Bình đã vào trong Miếu. Nguyễn Bình đương dãy dụa, hai tay ôm chặt lấy bụng, máu đỏ từ các kẽ tay tuôn ra nhuộm đỏ cả rêu xanh. Có tiếng hạ lệnh – Khiêng Khu trưởng xuống xuồng. Rút lui mau. Tiếng chèo khua nước, chiếc xuồng chở Nguyễn Bình nằm ngửa, chân còn dãy dụa vì đau đớn, rẽ sóng lướt mau trên mặt nước. Trên bờ dọc theo mé sông Vàm Cỏ Đông, sau những bụi dừa nước um tùm, đoàn quân của Trung Đoàn 25 đã phục kích sẵn với cả những khẩu đại liên Maxim’s. Xạ thủ đại liên hỏi vì hai chiếc xuồng đã nằm gọn trong ổ phục kích. – Thưa anh lớn, ta nhả đạn chứ ? Lưu Nhất đã chứng kiến từ lúc đầu khi Nguyễn Bình được khiêng xuống xuồng, chép miệng đáp – Không cần. Dẫu sao chăng nữa, Khu trưởng Nguyễn Bình cũng đáng được chôn cất đường hoàng chứ không đến nỗi phải… mò tôm tiếng của kháng chiến ám chỉ kẻ chết bị thả xuống sông. Vì muốn dành một chút danh dự cuối cùng cho một vị Khu trưởng mà sau này, kháng chiến Nam Bộ nổi lên biết bao sóng gió… *** Văn phòng bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 lại nhộn nhịp nhưng trong một phòng kín chỉ có Bùi Hữu Phiệt, Lưu Nhất, Sáu “Xếch xông”, vị Tham Mưu trưởng Trung Đoàn 25 và “anh lính Cao Đài” xạ thủ hội họp. Bùi Hữu Phiệt hỏi “anh lính Cao Đài” – Em có chắc Nguyễn Bình bị chết không ? – Thưa anh lớn, một phát trúng bả vai, một phát trúng ngực không nguy hiểm lắm, nhưng bốn phát trúng bụng thì tôi chưa thấy ai có thể chịu được. Lưu Nhất tiếp – Đạn Colt II, 45 bắn gần, có thể làm đứt từng khúc ruột. Bùi Hữu Phiệt quay qua hỏi Sáu “Xếch xông”. – Sao tới mãi hôm nay mới thi hành được một vụ ? Sáu “Xếch xông” vội đáp – Trong phiên họp khu bộ kỳ 2, Nguyễn Bình thấy em nhận lời… bên anh, thì mừng lắm muốn ra tay ngay nhưng cuối cùng lại trì hoãn bởi có bận nhiều công việc quan trọng khác. Y lưu em lại khu bộ, em nóng lòng muốn chết vì phải thông báo cho anh Mười rõ. Nguyễn Bình cũng rõ bổn phận của em sau khi đi họp, nên viết thư tay, cho liên lạc của khu bộ đi trao cho anh Mười nói rằng còn nhiều việc hệ trọng bàn với em nên phải trong một thời gian nữa mới về được. Cuối cùng em mới hiểu rằng Nguyễn Bình nghi ngờ em hay ít lắm, vào lúc giờ chót có thể thay đổi ý kiến nên giam lỏng em ở Khu để dò xét. Nhận được thư, anh Mười đã biết, rồi thông báo hành trình của tụi em hằng ngày cho anh biết. – Tại sao Nguyễn Bình lại phải làm thế? – Một phần y sợ đàn em không hoàn tất được sứ mệnh, phần nữa y phải kèm sát em sợ mưu toan bị lộ. Lưu Nhất gật đầu – Dĩ nhiên là Nguyễn Bình phải hành động như vậy. Sáu “Xếch xông” kể tiếp – Đã lọt vào nội địa bên Lò Đường rồi, em đề nghị Nguyễn Bình vào Miếu lánh mặt bởi lẽ tất cả các anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 đều biết mặt Khu trưởng. Nếu mẻ lưới không bắt được trọn bộ Tham Mưu, chỉ một tên thoát thôi cũng đủ vở lỡ hết mọi chuyện. Hơn nữa sự xuất hiện đột ngột của Khu trưởng có thể gây phản ứng bất ngờ mà anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 ai cũng có súng, ai bắn cũng mau như Khu trưởng đã biết. Nguyễn Bình công nhận hữu lý nên mới tạm lánh nơi miếu hoang. Sáu “Xếch xông ” chợt hỏi – Thí dụ như Nguyễn Bình không chịu vào Miếu thì các anh tính sao ? Lưu Nhất mỉm cười – Thì… tốn thêm ít viên đạn nữa. Gần tới cầu, anh Sáu thấy loáng thoáng vài người ra vào bộ Tham Mưu nhưng quanh sân, trung đội Thompson phòng vệ bộ Tham Mưu đã phục kích sẵn. Thí dụ như trung đội này thua tiểu đội tiểu liên của Nguyễn Bình thì còn vòng đai bên ngoài… Lưu Nhất nghiêm giọng – Sáng sớm hôm nay tôi mới được anh Tư lịnh Trung Đoàn cho hay, nhưng khi thấy Nguyễn Bình đặt chân lên Lò Đường là đã coi y như cái thây ma dầu y có mang theo cả một đại đội vệ binh vì cả đại đội này sẽ bị quân phục ven sông bắn chìm xuồng trước khi đặt chân lên đất liền. Thí dụ rằng, giờ phút chót, Nguyễn Bình đổi ý kiến, quay xuồng cùng tiểu đội cận vệ ra về thì máu loang nhiều trên sông Vàm Cỏ chứ làm sao thoát được tử thần. Sáu ” Xếch xông” rùng mình, Lưu Nhất hiểu ngay – Trong trường hợp đó thì cũng hơi nguy hiểm cho anh vì đạn vốn không có mắt. Sáu “Xếch xông” thắc mắc – Nhưng tại sao Nguyễn Bình lại thù hận các anh như vậy ? Bùi Hữu Phiệt đưa mắt cho Lưu Nhất rồi cùng phá ra cười – Không, Khu trưởng Nguyễn Bình không “ghét” chúng tôi như anh tưởng đâu. Câu hỏi của Sáu “Xếch xông” không phải là vô lý nhưng Bùi Hữu Phiệt và Lưu Nhất đã cười xòa, lãng sang chuyện khác bởi vì dầu sao cũng không cần phải cho Sáu” Xếch xông” hiểu biết về sự sống chết ngấm ngầm giữa Nguyễn Bình và Trung Đoàn 25 Bình Xuyên. —>Xem tiếp Pages 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Khu tưởng niệm Anh hùng Dân tộc Nguyễn Huệ AI GIẾT VUA QUANG TRUNG * Trang Wiki viết Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết về cái chết của vua Quang Trung được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi Quang Trung giả sang Yên Kinh gặp Càn Long, được Càn Long tặng cho chiếc áo, có thêu 7 chữ Xa tâm chiết trục, đa điền thử 車心折軸多田鼠 Nghĩa là Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng Theo phép chiết tự, chữ "xa" 車 và chữ "tâm" 心 ghép lại thành chữ "Huệ" 惠 là tên của Nguyễn Huệ; "chuột" nghĩa là năm tý Nhâm tý 1792. Ý của dòng chữ trên áo là Nguyễn Huệ sẽ chết vào năm Tý. Giả thiết này ý nói rằng Nguyễn Huệ chết do áo bị yểm bùa. Bình Nếu chuyện này có thật. Có thể các cao thủ TỬ VI nhà Thanh hồi ấy. Đoán được năm mất của Vua Quang Trung. Chắc chắn Vua Quang Trung vốn không tin cậy nhà Thanh, đã đưa người cải trang nhà Vua qua bên ấy, cũng không dại gì mặc chiếc áo có có vận xui “Huệ bị gảy trục”, tương đối dễ phát hiện, chỉ có ba chữ sau khó hiểu, chỉ khi nào sự cố sẩy ra mới giải thích được Sách Ngụy Tây liệt truyện, một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn ghi giải thích cái chết của vua Quang Trung như sau “Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng “Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm... Từ đó, bệnh chuyển nặng..." Sách Tây Sơn thực lục cũng có ghi "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi...". Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng một năm Càn Long thứ 58 1793, Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long "Quang Trung đã chết vì bệnh". Cũng một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Một giáo sĩ tên Longer, có mặt ở Đàng Ngoài vào những thời điểm này, đã viết trong một bức thư đề ngày 21 tháng 12 năm 1792 là vua Quang Trung chết vì bệnh, nhưng không rõ là bệnh gì. Các nhà nghiên cứ về sau gạt bỏ các chi tiết mê tín trong Ngụy Tây liệt truyện thì họ cho rằng Quang Trung đã bị một cơn tăng huyết áp đột ngột Bác sĩ Bùi Minh Đức qua khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử, kết luận rằng Nguyễn Huệ "Xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong do viêm phổi sặc". Trang Thu viện Bình Định viết Suốt hai thế kỷ qua, nhiều điều nghi vấn về cái chết của vua Quang Trung vẫn chưa được "giải tỏa" một cách thỏa đáng. Liệu khoa học pháp y ngày nay có thể mang lại lời giải thích nào chăng? VÀI GIẢ THUYẾT Vua Quang Trung mất vào tuổi bốn mươi, giữa lúc đang chuẩn bị thực hiện hai ý đồ hết sức lớn lao ông dự tính mở một chiến dịch lớn để tiêu diệt quân Nguyễn Ánh và bọn can thiệp Pháp để hoàn thành việc thống nhất đất nước; đồng thời tích cực đòi lại hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông từ nhà Thanh bên Trung Quốc. Trong bối cảnh lịch sử như vậy, triều đình đã tuyệt đối giữ bí mật về cái chết của nhà vua, ra lệnh giới nghiêm "nội bất xuất, ngoại bất nhập" ngăn chặn từ xa mọi con đường tới kinh đô Phú Xuân. Đến nỗi ngay người anh cả của nhà vua là Nguyễn Nhạc, khi nghe tin vua mất, dẫn một đoàn hơn ba trăm người từ Quy Nhơn ra cũng bị chặn lại ở Quảng Ngãi, chỉ để có một mình bà chị được đi tiếp. Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục. Có thể tập trung những giả thuyết này vào những ý chính sau đây 1. Trong khi tích cực chuẩn bị binh mã để tiến đánh chiếm Quảng Tây, Quảng Đông, vua Quang Trung đã làm một động tác ngoại giao nghi binh phái Đại tường Võ Văn Dũng cầm đầu một thái đoàn sang triều đình nhà Thanh dâng biểu xin cầu hôn con gái vua Càn Long và đòi lại đất lưỡng Quãng, cốt để "dò xem ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây binh đao" Hoàng Lê Nhất Thống Trí, và Đại Nam chính biên liệt truyện. Vua Càn Long lúc đó đã tám mươi tuổi, đã trị vì hơn sáu mươi năm, là người đã hết sức lão luyện về mọi mưu mô chính trị, liệu còn có thể bị "đánh lừa" như khi tiếp "Quang Trung giả" ở nhiệt Hà và Bắc Kinh với những lời thơ chan chứa tình cảm "Mới gặp nhau mà như đã thiên thu… Người xa nhưng Trẫm luôn nhắc nhở. Hội ngộ thịnh thời thỏa ước mơ"? Lần này, chắc chắn vị vua cáo già ấy đã nhìn rõ ý định của vua Quang Trung nên "tương kế tựu kế" một mặt chấp nhận cả hai đề nghị của vua Quang Trung, mặt khác lại cho người sang ám hại nhà vua bằng thứ võ khí nham hiểm nhất là thuốc độc. 2. Vào năm 1961, một người tên Nguyễn Thượng Khánh, tự nhận mình thuộc chi phái Lê Duy Mật của hoàng tộc nhà Lê, đã viết một loạt bài đăng trên tạp chí Phổ thông xuất bản ở Sài Gòn từ số 61 đến 65 dưới nhan đề "Vua Quang Trung chết vì một liều độc dược của Ngọc Hân công chúa". Ông cho đó là một sử liệu bí mật của dòng họ nhà ông, có liên quan đến lịch sử mà "xưa nay chưa ai phát hiện ra". Theo ông này, khi được tin vua Càn Long hứa gả con gái cho Quang Trung, "trong một phút bồng bột vì quá ghen, Ngọc Hân đã bỏ thuốc độc cho Quang Trung uống". Đi xa hơn nữa, ông còn cho rằng "cuộc hôn phối giữa Nguyễn Huệ và Ngọc Hân không là cuộc hôn phối tốt đẹp, lẽ tự nhiên có một sự oán hờn bên trong", và "nếu không vì chữ hiếu thì Ngọc Hân đã có thể chết đi được khi nàng được tin phải làm vợ của tướng Tây Sơn”. Lại đi xa hơn nữa, ông còn cho rằng “bài văn tế Quang Trung và Ai Tư vãn cho là của Ngọc Hân công chúa nhưng sự thật chưa hẳn đã đúng…” Những bài báo của ông Khánh đã gây ra một sự phẫn nộ và phản ứng mạnh mẽ không những từ các nhà học giả, giới tri thức mà cả từ con cháu dòng dõi Lê Duy Mật ở rải rác khắp miền Nam. Sau đó, nhiều bài báo đã vạch ra những sai lầm, dốt nát về lịch sử của ông Khánh, phê phán óc tưởng tượng bệnh hoạn của ông đã dám xúc phạm đến những vị anh hùng, liệt nữ được cả dân tộc mến yêu. Cuối cùng, người ta đã về tận sinh quán của ông Khánh để tra cứu gia phả thì xác minh ông không phải là dòng dõi Lê Duy Mật như ông đã tự nhận. Như vậy, tóm lại chỉ có hai giả thuyết chính nhà vua đã chết vì đầu độc, hay chết vì bệnh nhưng không rõ là bệnh gì. THỬ PHÂN TÍCH THEO KHOA HỌC PHÁP? Về mặt pháp y, thông thường chỉ có bốn nguyên nhân gây ra cái chết. Đó là chết vì tai nạn xe cộ, lao động..., chết vì tự sát, chết vì án mạng bị giết và chết tự nhiên bệnh tật, tuổi già.... Trong thực tế thì phức tạp hơn nhiều một vụ án mạng có thể được ngụy trang thành một vụ tự tử, một tai nạn, thậm chí một vụ chết tự nhiên. Và ngược lại, có những dấu hiệu có thể làm nhầm lẫn một tai nạn, một vụ tự tử , một cái chết tự nhiên với một vụ án mạng tinh vi có chủ mưu. Trong trường hợp vua Quang Trung, có thể loại bỏ ngay nguyên nhân tự tử. Còn về nguyên nhân tai nạn thì có nghi vấn, không có sử sách nào nói trong suốt cuộc đời trận mạc, nhà vua đã có lần nào bị thương chưa, bị thương ở phần nào của cơ thể, nhất là có bị thương vào đầu không chấn thương sọ não. Về hai nguyên nhân chính bị đầu độc và bị bệnh - thì hai nguyên nhân này cũng không loại trừ nhau. vì có thể có những vụ "đầu độc dần dần", gây nên một sự nhiễm độc chậm, không làm chết nhanh chóng, chết đột ngột mà làm cho cơ thể bị nhiễm độc biểu hiện ra bằng những triệu chứng có thể nhầm với bệnh tật. Ngược lại, cũng có những bệnh tật thực sự, trong quá trình diễn biến sinh ra độc tố, có thể biểu hiện ra bằng những dấu hiệu giống như bị đầu độc. Trong trường hợp của vua Quang Trung , có thể khẳng định nhà vua không chết đột ngột mà đã trải qua một quá trình bệnh tật nhiều ngày "Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết...", được Ngọc Hân tận tình cứu chữa, lo chạy "khắp mỗi chốn đâu đâu tìm rước. Phương pháp nào đối được cùng chăng?" - Ai Tư vãn. Chúng tôi cho rằng có thể gạt bỏ giả thuyết bị đầu độc, vì để đầu độc một người chết dần dần như bị bệnh không phải là chuyện dễ, phải có chất độc thích hợp. Chất gì, kiếm ở đâu ra, làm sao mang được vào trong cung vua, dùng với liều lượng nào để không gây chết nhanh, Trong lịch sử nước ta, không hề nghe nói có vụ nào dần dần như vậy. Uống thuốc độc tự tử hay "tam ban triều điển" thường là chết rất nhanh, vừa uống khỏi mồm là đã vật vã chết rồi. Cuối cùng, chỉ có giả thuyết chết vì bệnh có lẽ gần sự thật nhất. Nhưng chết vì bệnh gì? Suy luận theo những kiến thức Tây y đương đại, chúng tôi nghĩ rằng một con người như vua Quang Trung, đang ở độ tuổi sung sức, hoạt động mãnh liệt, đánh đông dẹp bắc, ngày đêm lo nghĩ, có một cuộc sống cực kỳ căng thẳng, nói như ngày nay là "luôn luôn bị những stress" như vậy thì không tránh khỏi bệnh cao huyết áp. Thêm vào đó là chế độ dinh dưỡng của một ông vua ngày nào cũng mỡ thịt phủ phê, làm sao không để lại một tỉ lệ cholestérol cao trong máu, dẫn đến xơ vữa động mạch - nguyên nhân của những tai biến mạch máu não. Ta không thể bỏ qua được điều giải thích trong sách Ngụy Tây liệt truyện gạt bỏ những chi tiết mê tín dự đoan và ác ý chính trị thì cái lõi còn lại chính là triệu chứng của một cơn tăng huyết áp đột ngột, mà Tây y mô tả như, ở thời chiến trận ngày xưa, người ta dùng những cây gỗ thật lớn lao vào cửa thành để phá cửa Un coup de bélier hypertensif - Người bệnh bỗng xây xẩm mặt mày, ngã xuống bất tỉnh... Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng giả thuyết vua Quang Trung chết vì bệnh có thể là gần sự thật hơn cả. Nhà vua có thể từ lâu đã bị cao huyết áp, và đã chết vì một tai biến mạch máu não. Dù sao, giả thuyết vẫn chỉ là giả thuyết thôi, bao giờ cũng khập khiễng và để lại nhiều tồn nghi./. Trên phương diện TỬ VI ta thấy gì? Hai hạn của nhà Vua có nhiều đối tượng. Đại hạn có Huynh, Tử. Tiểu hạn có Thê. Nhưng không có thù oán, oan khốc tại 2 hạn, chỉ có Cô Quả không giao du. Đặc biệt cung Huynh Đề của Vua có BỆNH PHÙ Tam Không có Hình xung... Đây chỉ mới xung thôi, nơi THIÊN HÌNH trừng phạt chính là cung Nô Bộc. Cung Nô Bộc bị HÌNH KHÔI KHÔNG KIẾPCỰ ĐỒNG... Nhà vua từng giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm một số tướng của Tây Sơn phải đầu quân cho Nguyễn Vương. Cũng trong đại hạn này năm Đinh Mùi 1787 hai anh em xung đột với nhau, theo mô tả của Wiki vắn tắt dưới đây. Nếu an lưu động bạn sẽ thấy năm đó tại Huynh Đệ cung có Lưu KÌNH. Ở đây người viết không muốn đi sâu vào cung Huynh Đệ nhưng nhằm chứng minh, loại trừ cung Huynh Đệ không có dính dáng đến cái chết của nhà vua. Sau này người viết sẽ chứng minh một người bị người khác giết, khác với đau ốm bệnh tật như thế nào, mặc dù tại đây có Âm nhưng không có thể đưa đến âm mưu ám hại. Hai anh em không ưa nhau từ chỗ âm thầm đã chuyển qua công khai đánh nhau, đó chẳng qua là việc làm bất đắc dĩ. Ứng hợp với cung đại hạn có thấy cung Huynh Đệ. Trang Wiki viết Mâu thuẫn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ngày càng lớn. Vua Tây Sơn vốn không có ý đánh ra Bắc Hà, chỉ muốn chiếm Nam Hà việc Huệ đánh Bắc Hà là trái ý Nguyễn Nhạc, lại thấy Nguyễn Huệ ở Bắc Hà lâu quá sau khi thắng nên Nguyễn Nhạc đâm ra lo sợ vì khó kiềm chế được Nguyễn Huệ. Nguyễn Nhạc tuyển một đội lính hộ tống đi ra Bắc và đòi Nguyễn Huệ về. Dù chính Nguyễn Huệ đã ra tận ngoài cửa ô tiếp đón, cả hai cùng đi triều kiến vua Lê rồi về Nam nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa bằng lòng. Tới Phú Xuân, Nguyễn Huệ ở lại còn Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đưa ra nhiều đòi hỏi tỏ uy quyền mà Nguyễn Huệ từ chối bắt Nguyễn Huệ đi chầu, nộp chiến lợi phẩm và nộp đất Quảng Nam.. Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc và binh lính lại rất trung thành với ông. Nguyễn Nhạc phẫn chí, giết công thần Nguyễn Thung, hiếp vợ Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ chiếm nốt kho vàng của Tây Sơn ở Quy Nhơn để vận hành chiến tranh, thế là chiến tranh xảy ra. Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc trong vài tháng đầu năm 1787, ông tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân. Họ đánh nhau dữ dội và sau đó Nguyễn Huệ tiến đến vây thành Quy Nhơn, đắp thành đất, bắn đại bác vào thành. Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải vào đền thờ cha mẹ khóc rồi kêu Đặng Văn Chân từ Gia Định về cứu nhưng quân Đặng Văn Chân tới nơi lại bị Nguyễn Huệ đánh tan, buộc Đặng Văn Chân phải tới hàng. Tuy quân của Nguyễn Huệ trong các cuộc công thành thương vong đến phân nửa nhưng tình thế buộc Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc xin em "Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế". Nguyễn Huệ nể tình anh em, thôi hãm thành và bằng lòng giảng hòa với vua anh, rồi rút về Thuận Hóa MỆNH của vua Quang Trung hưởng cách “Hưởng đắc an toàn chi phúc” không bị thương tích vào thân thể, không bị ám toán, không bị phá cách. Nếu có, thì đáng nghi ngờ. Cho nên bị ám hại nên loại trừ, tuy nhiên cung an Thân có Lang Hổ, thiên về mâu thuẩn trên dưới nội bộ. Phúc Đức cung chỉ báo ngắn ngủi mà thôi. Đại hạn của nhà vua THÁI DƯƠNG có tính minh bạch công khai rõ ràng, tiểu hạn có tính bí mật của TỬ VI chứ không âm mưu, âm thầm, mờ ám như THÁI ÂM. Ta có quyền nghi nghi vì bên ngoài TỬ VI có cả 2 Kỵ hội họp. Nếu có thêm Hình mới đáng ngờ hơn. Cái chết của vua Quang Trung, ở đây ta chỉ bàn sâu về chết vì cái gì, bệnh hay bị ám toán mà thôi. MỆNH THẤT SÁT hạn ngộ LỘC TỒN là một yếu tố xấu. 5 ăn 5 thua. LỘC TỒN lại có CỰ MÔN xung. Cát xứ tàng hung. Đại hạn ngộ Dương hãm Tuần tiểu hạn ngộ TỬ VI, THIÊN PHỦ TRIỆT mà ta biết TỬ VI rất kỵ TRIỆT. Cả 2 hạn đều ngộ Không Vong, lại có Lưu TUẦN TRIỆT. Như vậy cả 2 hạn bị Vong Tinh cố định và lưu động, Trong đó TỬ VI kỵ nhất. Vì dễ cái họa “ giữa đường đứt gánh”, “Từ bỏ nhiệm vụ”, “Tử vong cách”... nếu thấy thêm THIÊN KHÔNG thì cực xấu. Cũng tại đại hạn này có bộ KHÔI VIỆT BỆNH PHÙ chủ Phát Sinh Bệnh., tiểu hạn cũng gặp bộ sao lưu động cùng tên, chủ Vua phát Bệnh mà mất. Chưa hết chuyện nhà vua còn thêm cách xấu nữa. Lưu Đại BẠCH HỔ tại MỆNH. Và “THẤT SÁT lưu niên BẠCH HỔ tai thương”. Nếu cộng tất cả các yếu tố đó lại, nhẹ tay cũng 5 điểm xấu. Mà 5 điểm xấu là coi như mạt lộ, trong đó TỬ VI ngộ TRIỆT lại gặp Lưu TUẦN TRIỆT lại thêm lưu lưỡng Kỵ, chỉ riêng yếu tố này thôi là trên 2 điểm xấu. Chết vì lý do gì? Bệnh gì? Một người có THẤT SÁT không cần phải THẤT SÁT đi với KÌNH HỎA là lửa bốc đầy đầu, đi với THẤT SÁT bị bệnh tăng áp, nếu ĐÀ Hỏa lại thiên về giám, hạ áp. Tật ách cung nhà vua có bộ VIÊT HỒNG gia ĐỊA KIẾP, đại hạn đang hội họp với LOAN chủ máu, chủ hệ tim mạch, VIỆT chủ phát sinh, thái quá,, VIỆT KIẾP chủ phát sinh tai họa... Và năm nay lại có lưu VIỆT HỒNG tụ tập. Hay nói cách khác tại Tật Ách cung đã báo trước bởi bộ VIỆT HỒNG BỆNH PHÙ có KIẾP, năm nay cũng bộ sao ấy Lưu động kích thích bộ cố định làm việc, cũng là lúc đại hạn có bộ sao này. bạn cần đọc kỹ đoạn này. Nhìn bản đồ sao lưu động thấy rất là rõ. Vậy thì nhà Vua bị đứt mạch máu mà chết. Đến Tồn mà không Tại. Bạn có tin khi một hạn TỬ VI xấu dễ bị đứt không nhỉ? Nó không đứt cái này thì đứt cái khác, quan trọng là tìm cho ra cái gì đứt đây, cái gì chết đây.. Không tin tìm ông Nguyễn Thái Học mà hỏi. Bạn có biết, trong nhóm các sao lưu động, có một sao xuất hiện tại Tật Ách, ta có quyền nghi ngờ người ấy bị giết? Bạn nào thử đoán xem. Ta nên quy nạp cách chết của Vua Quang Trung là một hạn tại TUẦN và một hạn tại TRIỆT gặp các sao Lưu cùng tên đồng cung, có TỬ VI ngộ TRIỆT theo tính toán của người viết thì 432 người mới có trường hợp kể trên. Từ đó bạn rút ra một kết luận. So sánh với các trường hợp sẽ gặp khi luận đoán. Như trường hợp nhà Vua bất lợi trước LỘC TỒN lại lưu LỘC TỒN, TỬ VI ngộ TRIỆT lại lưu thêm TRIỆT. Cũng hạn như thế này những sao ưa LỘC TỒN lấy đâu mà chết. Các sao CỰ MÔN, SÁT PHÁ dị ứng với LỘC TỒN các sao còn lại, được kể là không dị ứng. Phần tâm tình Khi đọc bài viết này, người viết tin rằng có ít nhất 2 người tiếp thu nhanh và đánh giá cao tầm quan trọng của sao lưu động. Bạn cũng cần chú ý an KHÔI VIỆT, KHOA tuổi Nhâm cho chính xác. Trước một lá số TỬ VI bạn nên Phân tích như thế này. Nhưng trước hết nên an lá số TỬ VI nho nhỏ thôi, để có cái nhìn tập trung, nên tập an tay cho quen mới mong giỏi được, nếu không chẳng bao giờ giỏi đâu. Nhà nghiên cứu mà chẳng biết LƯU HÀ thuộc nhóm sao nào cũng bày đặt nghiên với cứu.... Tách các chính tinh ra. Đó là nhóm sao nghiệp chướng. Nghiệp chướng của nhà vua là THẤT SÁT. Xem bài THẤT SÁT được và mất, thắng và thua.... Còn lại bộ Can Chi là là tính cách của người đó. trong trường hợp này là bộ ĐẠI THÁI TUẾ, bộ sao này chủ đại chí. Vòng sao còn lại là vòng TRƯỜNG SINH. Các sao còn lại như XƯƠNG KHÚC, Tả Hữu, KHÔNG KIẾP, Kỵ hình... giúp chúng ta quyết đoán. Cũng với THẤT SÁT tại Thân nhưng đí với TIỂU THÁI TUẾ lại là rất tầm thường... Tại đây bạn mới làm quen các bộ VIỆT BỆNH PHÙ, bộ Đại Hổ, Đại Thái... chỉ mới nghe bàn đến lần đầu. Thật ra người viết định viết về bộ PHI VIỆT và các biến dạng của nó, nhưng bị hấp dẫn bởi 1 người thân viết đề tài, nghi vấn lịch sử VŨ KỴ về cái chết của nhà vua. Kỳ tới có thể viết cũng lá số của một người, cũng THẤT SÁT tại Thân bị chết bởi giết, lúc đó bạn sẽ thấy bị giết khác với bị chết dễ phát hiện chứ không có gì khó khăn cả. Tất nhiên là lá số của một nhân vật có tiếng nếu không dễ mang tiếng bịa ra mà nói. Nhưng để hiểu điều đó chúng ta phải bất đắc dĩ tìm hiểu lá số vua Quang Trung. Mời thư giãn với nhạc phẩm MÁI ĐÌNH LÀNG BIỂN của Nguyễn Cường, qua tiếng hát Tùng Dương * KHUYẾT DANH đang cập nhật Địa chỉ đang cập nhật Email đang cập nhật Điện thoại đang cập nhật - Đặng Xuân Xuyến giới thiệu -
Lê Thy đánh máy từ sách do TM gởi tặng Mùa Đông năm 1946. Trong căn nhà lớn, bịnh xá của khu 7 tại miền Đông Nam Bộ, giữa rừng già Tân Uyên, bác sĩ Nguyễn văn Hưởng, Bộ trưởng Y tế trong Ủy ban Hành Kháng Nam Bộ, không dấu nổi vẻ băn khoăn, lo ngại trên khoé mắt. Mặc dầu giữa chiến khu, Bác sĩ Hưởng cũng đội nón, áo choàng dài trắng muốt và đeo “găng” cao su. Các phụ tá, mang trên tay chiếc khay bạc đựng dụng cụ giải phẫu cũng lo âu chẳng kém bác sĩ khoa trưởng. Chưa bao giờ, trong căn phòng nhỏ giải phẫu, đèn “măng xông”, lại được thắp nhiều và sáng như vậy. Bác sĩ Hưởng đưa mắt quan sát bệnh nhân. Bệnh nhân nằm dài trên chiếc bàn mộc, chỉ còn thoi thóp thở, đôi mắt nhắm nghiền, sắc mặt trắng bệch, máu đỏ còn rỉ qua băng quấn trên ngực và bụng. Một người đàn ông cao lớn đeo kính trắng, mặc bà ba đen, khẽ đẩy cửa phòng bước vào – Thưa bác sĩ có chút hy vọng nào không ? Bác sĩ Hưởng trầm ngâm – Tôi không dám quả quyết nhưng còn nước còn tát. Giải phẫu trong tình trạng này có thể làm bệnh nhân chết tức khắc hay hy vọng cứu được. Ông bí thư nghĩ sao ? – Thưa tôi cũng nghĩ như bác sĩ “còn nước còn tát”, may ra cứu sống được Khu trưởng. – Vậy ông bí thư ra ngoài, chúng tôi bắt tay vào việc. Cửa phòng khép kín, Bác sĩ Hưởng bắt mạch bệnh nhân Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình, một lần nữa rồi quyết định giải phẫu. Những vết thương nơi ngực không nguy hiểm, đầu đạn đã trổ ra ngoài mà không phạm vào phổi nhưng 4 viên trúng bụng thì thực là trầm trọng. Bác sĩ Hưởng quay lại nói nhỏ với một viên phụ tá vài câu rồi mới bắt tay vào việc. Không khí trong phòng giải phẫu thật nặng nề. Tiếng “soạt soạt” của chiếc dao bạc giải phẫu trên da thịt át cả hơi thở của các bác sĩ đương hành nghề. Giọng chỉ huy của bác sĩ Hưởng máy móc, ngắn ngủi nhưng cực kỳ nghiêm trang”dao số 3, kìm số 1, kéo số 7, cắt đoạn này 2 phân nối ống cao su 1 phân, khâu lại bằng chỉ bạc số 6″. Các bác sĩ chuyên khoa làm việc như những chiếc máy tinh vi, nhanh nhẹn và đúng mức. Ánh sáng lên cao, xuyên qua các kẽ hở của cửa sổ làm lu mờ ánh đèn măng-xông vẫn chưa có ngọn nào bị tắt đi. Bác sĩ Hưởng xòe tay – Kẹp cuối cùng. Mọi ngưòi thở phào vì biết cnộc giải phẩu gần 12 giờ liên tiếp đã chấm dứt. Bác sĩ Hưởng hạ lệnh – Trong hai ngày đầu, phải thay phiên nhau, hai người thường trực suốt ngày đêm lo về tiếp máu và coi chừng hô hấp. Tới ngày thứ ba, thêm một người lo về lương thực. Chỉ dùng sữa và nước cháo loãng bơm thẳng vào bao tử, mọi biến chứng dầu nhỏ nhặt tới đâu cũng phải cấp tốc cho tôi hay. Khu trưởng sẽ hôn mê ít nhất trong một tuần. Qua thời gian đó là chắc sống nhưng phải điều dưỡng trong sáu tháng. Bác sĩ Hưởng ra khỏi phòng giải phẫu, không phải để nghỉ ngơi, mà cấp tốc gặp Nguyễn văn Thắng bí thư của Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình. – Bằng đủ mọi cách, nội trong ba ngày ông bí thư phải có cho tôi những loại thuốc và vật dụng này. Bác sĩ Hưởng hí hoáy viết đầy trên một tờ giấy trắng. Nguyễn văn Thắng lo lắng – Thưa bác sĩ Bộ trưởng có hy vọng… Bác sĩ Hưởng mỉm cười – Tôi chưa thấy ai có sức chịu đựng như Khu trưởng Nguyễn Bình. Sau cuộc giải phẫu, tuy Khu trưởng có yếu đi nhưng hơi thở không hỗn loạn, cho phép tôi hy vọng rằng Khu trưởng sẽ thoát nạn. Nguyễn văn Thắng xin phép ra ngoài phòng để trao cho cán bộ thân tín “toa” của bác sĩ Hưởng – Bằng đủ mọi cách, và trong thời gian ngắn nhất, về Thành Saigon trao cho Phạm Ngọc Thảo “toa” này và bảo Thảo cung cấp đầy đủ trong một ngày, rồi cấp tốc mang về đây Phạm Ngọc Thảo, cháu ruột của Phạm văn Bạch, Chủ Tịch Ủy ban Hành Kháng Nam bộ, thời đó là chỉ huy trưởng công tác Thành. Nguyễn văn Thắng trở lại phòng vẫn thấy bác sĩ Hưởng trầm ngâm. – Xin mời bác sĩ Bộ trưởng đi nghỉ. Với lương tâm nghề nghiệp, bác sĩ Hưởng hỏi lại – Liệu có những” món đó ” trong hai ba ngày ?. – Thưa, có thể sớm hơn… – Tất cả ? – Dạ tất cả. Bác sĩ Hưởng đã đứng lên, nhưng lại ngồi xuống – Tôi hơi tò mò, nhưng sự tò mò này quan trọng về nghề nghiệp vì có hiểu được mới ngăn ngừa các phản ứng khi Khu trưởng tỉnh dậy. Tại sao Khu trưởng làm… Nguyễn văn Thắng thở dài, nhẹ lắc đầu. *** Đúng một tuần lễ sau, tin Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình còn sống làm rúng động khắp Nam Bộ. Khởi đầu, người ta có cảm tưởng rằng đó chỉ là một tin nhằm trấn an tinh thần kháng chiến. Nhưng những kẻ từ Tân Uyên chính mắt trông thấy Nguyễn Bình còn thở, chính tai còn nghe Nguyễn Bình phều phào nói, xác nhận tin trên khiến không còn ai nghi ngờ. Tại làng An Tịnh, thuộc quận Tràng Bàng, tỉnh Tây Ninh, một phiên họp tối khẩn và tối mật được triệu tập. Tham dự phiên họp này có – Huỳnh văn Trí tức Mười Trí, Tư lịnh Trung Đoàn 4 Bình Xuyên, – Sáu ” Xếch xông”, Tư lịnh Phó của Mười Trí, – Phạm Hữu Đức, Tư Lịnh Trung Đoàn 5 thối thân của Đệ Tam Sư Đoàn, – Bùi Hữu Phiệt, Tư lịnh Trung Đoàn 25 thối thân của bộ đội An Điền – cùng viên Tham Mưu trưởng Trung Đoàn, Trình Minh Thế, Chỉ huy trưởng Cao Đài kháng chiến cùng thuộc hạ. Mười Trí đưa mắt nhìn Trịnh Minh Thế và Bùi Hữu Phiệt. Cả hai đều lắc đầu lầm bầm – Không thể nào ngờ được. Phải, không ai cỏ thể ngờ được Khu trưởng Nguyễn Bình qua cuộc giải phẫu của bác sĩ Hưởng, lại còn sống. Cuốn phim dĩ vãng quay ngược trong đầu mọi người. —>Xem tiếp Pages 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
ai giết nguyễn bình